Không tìm thấy kết quả nào

    Giảm phát là gì? Mối quan hệ giữa suy thoái và giảm phát

    Giảm phát là gì? Mối quan hệ giữa suy thoái và giảm phát

    Giảm phát (Deflation) là một hiện tượng diễn ra phổ biến trong nền kinh tế thế giới trong những năm trở lại đây. Giảm phát là một khái niệm căn bản trong kiến thức về kinh tế. Giảm phát là sự giảm giá chung đối với hàng hóa và dịch vụ xảy ra khi tỉ lệ lạm phát giảm xuống dưới 0%. Giảm phát xảy ra một cách tự nhiên khi cung tiền của một nền kinh tế cố định. Trong thời kì giảm phát, sức mua của tiền tệ và tiền lương cao hơn so với trước đây.  Trên thực tế, giảm phát làm cho chi phí danh nghĩa của vốn, lao động, hàng hóa và dịch vụ thấp hơn nếu cung tiền không bị thu hẹp. 

    📍 NGUYÊN NHÂN CỦA GIẢM PHÁT
        Giảm phát được gây ra bởi một số nguyên nhân nhưng chủ yếu là do hai yếu tố: sự sụt giảm trong tổng cầu và tăng năng suất. Sự sụt giảm trong tổng cầu thường dẫn đến giá cả trở nên thấp. Nguyên nhân của sự thay đổi này bao gồm cắt giảm chi tiêu của chính phủ, thất bại của thị trường chứng khoán, người tiêu dùng mong muốn tăng tiết kiệm và các chính sách tiền tệ thắt chặt như tăng lãi suất cao hơn.
        Về tăng năng suất: khi công nghệ tiến bộ, các công ty hoạt động hiệu quả hơn. Những cải tiến hoạt động này dẫn đến chi phí sản xuất thấp hơn và kết quả là người tiêu hưởng lợi từ giá bán các sản phẩm thấp hơn.

    📍 MỐI QUAN HỆ GIỮA SUY THOÁI VÀ GIẢM PHÁT
        Giảm phát thường xảy ra trong và sau thời kì suy thoái kinh tế. Khi một nền kinh tế trải qua một cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng nghiêm trọng, sản lượng kinh tế chậm lại do nhu cầu cho tiêu dùng và đầu tư sụt giảm. Điều này dẫn đến sự sụt giảm giá tài sản nói chung vì các nhà sản xuất buộc phải thanh lý hàng tồn kho mà mọi người không còn muốn mua. Người tiêu dùng và các nhà đầu tư cũng bắt đầu nắm giữ tiền để dự trữ như một cách phòng chống tổn thất tài chính gia tăng. Xu hướng tiết kiệm càng tăng, lượng tiền dùng cho chi tiêu càng ít khiến cho tổng cầu càng giảm hơn nữa.
        Khi điều này xảy ra, kì vọng của mọi người về lạm phát trong tương lai được hạ xuống và mọi người lại bắt đầu tích trữ tiền. Tại sao bạn lại nên chi một đôla trong ngày hôm nay khi bạn kì vọng nó có thể mua được nhiều thứ hơn vào ngày mai? Và tại sao ngày mai bạn nên chi tiêu khi mọi thứ thậm chí còn sẽ rẻ hơn trong thời gian một tuần?

    🆘 NẾU LẠM PHÁT LÀ “THẦN ĐÈN”, THÌ GIẢM PHÁT LÀ “CON QUÁI VẬT” CẦN PHẢI HẠ DỨT ĐIỂM
    Đã đến lúc chúng ta cần có một “suy nghĩ lớn” về cách thức vận hành nền kinh tế hậu đại dịch với khả năng bóng ma giảm phát đang lởn vởn.

    Tại sao nên lo sợ giảm phát nhiều hơn lạm phát?
        Cả thế giới tràn ngập tiền với các gói kích thích tiền tệ lớn chưa từng có, cùng với đó là một cuộc đại phong toả toàn cầu làm sụp đổ toàn diện các chuỗi cung ứng. Khi quá nhiều tiền chạy theo quá ít hàng hoá, các lý thuyết kinh tế dự báo lạm phát cao sẽ quay trở lại.
        Tuy nhiên, bằng chứng thực tế từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 cho đến nay chưa cho thấy điều này. Thậm chí, ngược lại là xuất hiện giảm phát ở các nước phát triển, bất chấp việc các ngân hàng trung ương đã bơm hàng chục ngàn tỷ USD vào nền kinh tế, vậy mà, lượng tiền vẫn cứ chạy lòng vòng trong hệ thống tài chính, mà không thể thoát được ra nền kinh tế thực. Đại dịch Covid-19 càng khiến cho giá cả hàng hoá thế giới lao dốc, giá dầu rơi vào ngưỡng âm, tình trạng thất nghiệp hàng loạt khiến cho tiền lương sụt giảm mạnh, cầu hàng hoá, dịch vụ rơi thẳng đứng.
        Với cuộc đại phong toả vĩ đại này, lần đầu tiên, các nhà kinh tế sẽ còn chứng kiến sự gia tăng ở quy mô lớn chưa từng có của 2 loại tiết kiệm, đó là tiết kiệm do người dân hạn chế mua sắm vì các lệnh giãn cách xã hội, nỗi lo sợ đại dịch Covid19 và tiết kiệm phòng ngừa những bất định trong tương lai. Tất cả tích hợp lại, đủ sức tạo ra một kỳ kỷ băng hà kéo dài trong kinh tế toàn cầu, dẫn đến suy thoái, giảm phát kéo dài. Nhưng cũng có nhà kinh tế cho rằng, nếu các lệnh phong toả còn kéo dài, nguồn cung ứng hàng hoá khan hiếm sẽ làm giá cả tăng mạnh, dẫn đến lạm phát. Lạm phát là một sự gia tăng liên tục trong mức giá. Ngay cả khi nguồn cung ứng khan hiếm, thì đó cũng khó có thể trở thành cú sốc dai dẳng, khó dẫn đến một sự gia tăng liên tục trong mức giá.
        Hơn nữa, khi nền kinh tế bị phong toả, cũng làm đứt gãy nguồn cung và do đó làm giảm khả năng kiếm tiền để chi tiêu của người lao động. Đóng cửa một nhà hàng làm hạn chế cung ứng dịch vụ ăn uống (giá tăng), nhưng cũng có nghĩa là nhân viên phục vụ bị sa thải, nhân viên nhà bếp không có thu nhập. Trong nhiều trường hợp, sự sụt giảm trong cầu hàng hoá đến từ cú sốc cung có thể còn lớn hơn cả chính cú sốc cung. Cung sụt giảm, nhưng cầu còn giảm nhiều hơn sẽ dẫn đến giảm phát, thay vì lạm phát.
        Khi việc giá giảm trên diện rộng của một loạt hàng hoá, dịch vụ diễn ra trong thời gian dài, các hoạt động kinh tế ngừng trệ, sẽ ngày càng có nhiều người mua nghĩ rằng, họ sẽ được lợi nếu cứ tiếp tục chờ đợi thêm để hàng hoá rẻ hơn. Nếu nghĩ như thế, họ sẽ càng không mua bất cứ thứ gì, ngoại trừ thực phẩm và một số ít hàng hoá thiết yếu, khiến vòng xoáy giảm phát kéo dài.
    😳 Điều đáng lo ngại.
        Chính sách tài khoá, tiền tệ mở rộng chưa từng có ở nhiều nước, một mặt để cứu nguy nền kinh tế, nhưng mặt khác cũng để chống lại một đợt giảm phát khó lường. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong khi các chính sách chống lạm phát thường đem lại thành công (tăng lãi suất, hút tiền về, tăng thuế, giảm chi tiêu công), thì các chính sách đối phó với giảm phát lại rất ít hiệu quả.
        “Nếu lạm phát là thần đèn, thì giảm phát là con quái vật cần phải hạ dứt điểm”, nguyên Tổng Giám đốc IMF Lagarde từng so sánh như thế giữa việc chống lạm phát và giảm phát (chú thích của người viết: Lagarde hàm ý có thể sử dụng thần đèn để đạt được điều ước “tỷ lệ lạm phát mục tiêu” và sau đó cần phải sớm triệu hồi trước khi “hắn” có thể đi gây hại). Thế giới đã chứng kiến 2 trường hợp điển hình trong những thảm họa kinh tế tệ hại nhất thời hiện đại đến từ nhận xét của Lagarde. Đó là cuộc đại suy thoái những năm 1930 và Nhật Bản, với hàng thập kỷ giảm phát, không có tăng trưởng kinh tế, cho đến nay vẫn không thể thoát ra được (Japanification).
        Trường hợp của Nhật Bản khiến cho các nhà kinh tế hiểu được rằng việc đưa một nền kinh tế thoát khỏi giảm phát là một nhiệm vụ rất khó khăn. Giá cả ở Nhật Bản bắt đầu tuột dốc từ những năm 1990, khi thiệt hại nặng nề từ bong bóng nhà đất khiến các ngân hàng ngừng cho mọi người vay tiền. Lương bổng bị đình trệ và người tiêu dùng hạn chế chi tiêu. Việc người tiêu dùng ngần ngại mua sắm và không thích những công ty tăng giá hàng hóa dần trở thành chuẩn mực mới. Ngân hàng trung ương Nhật Bản gọi hiện tượng này là "tư duy giảm phát". 
        Sau hai thập kỉ giá cả suy yếu và tăng trưởng thấp, Thủ tướng Shinzo Abe bổ nhiệm ông Haruhiko Kuroda làm Thống đốc ngân hàng trung ương Nhật Bản, quyết tâm tiêu diệt giảm phát vĩnh viễn.
    Nhưng sau 7 năm rót số tiền khổng lồ cho các ngân hàng thông qua việc mua lại số tài sản tài chính với qui mô còn lớn hơn cả GDP của Nhật Bản, tỉ lệ lạm phát của nước này vẫn gần bằng 0%, thấp hơn nhiều mục tiêu 2% đã đặt ra. Chính sách lãi suất âm và mục tiêu lợi suất trái phiếu 0% của Nhật Bản cũng không thúc đẩy đáng kể chi tiêu. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho sự khó khăn của việc chấm dứt giảm phát chỉ với các công cụ của chính sách tiền tệ.

    Điều gì đang làm dấy lên lo ngại về giảm phát hiện nay?
        Trước khi khủng hoảng COVID-19 nổ ra, tỉ lệ lạm phát của các nước công nghiệp cũng đã ở mức rất thấp, dù cho các cơ quan tiền tệ của những nước này đã tung ra nhiều biện pháp mạnh tay để kích thích tăng trưởng sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Giá dầu lao dốc và hoạt động kinh tế đóng băng vì COVID-19 càng khiến nỗi lo về khả năng xảy ra giảm phát trở nên trầm trọng hơn. Dù rằng các nhà máy và cửa hàng bị đóng cuối cùng cũng sẽ được mở cửa trở lại, nhưng nhiều việc làm trên toàn cầu đã bị xóa sổ, đồng nghĩa với việc tình trạng nhu cầu suy yếu sẽ tiếp tục kéo dài.
        Các biện pháp của chính phủ như phát tiền mặt cho người dân có thể sẽ không đủ để kích thích nhu cầu và thúc đẩy giá cả tăng một cách nhanh chóng, trong bối cảnh các biện pháp nhằm hạn chế lây lan COVID-19 và những lo ngại về sức khỏe khiến người dân ngại rời khỏi nhà. Triển vọng kinh tế bấp bênh đến múc Chủ tịch Fed Jerome Powell đã quyết định bỏ qua việc công bố các dự báo kinh tế, với lí do rằng việc đưa các con số này cho công chúng "chẳng những không giúp ích mà còn có thể trở thành vật cản trong việc truyền tải thông điệp của Fed". Một số người nghĩ rằng lo ngại về giảm phát do đại dịch COVID-19 gây ra đã bị phóng đại, vì giá cả có thể sẽ nhảy vọt một khi hoạt động kinh tế được nối lại. Ngoài ra, khi các biện pháp kích thích của chính phủ và ngân hàng trung ương phát huy hiệu quả, nhu cầu sẽ được thúc đẩy.
        Tuy nhiên, kể cả sau khi đại dịch COVID-19 chấm dứt, hậu quả của biện pháp phong tỏa – triển vọng việc làm nghèo nàn, niềm tin của người tiêu dùng bị hủy hoại, và sự hồi phục chắp vá của chuỗi cung ứng toàn cầu – có thể sẽ ngăn cản nền kinh tế hồi phục nhanh chóng, khiến lạm phát bị kìm hãm.
    Các ngân hàng trung ương thường dễ đối phó với lạm phát hơn là giảm phát, vì họ có nhiều "dư địa" để tăng lãi suất từ các mức lãi suất thấp như hiện tại.

    Nguồn: Healer

    Đăng nhận xét

    Mới hơn Cũ hơn

    نموذج الاتصال